Bệnh lý màng tim.
Điều trị ngoại khoa bệnh màng tim nhằm mục đích giải phóng cho cơ tim được giãn ra trong thì tâm trương. Có hai hình thái bệnh lý: cấp tính (viêm mủ màng tim) và mãn tính (viêm màng tim co thắt).
1.Viêm mủ màng tim:
-
Viêm mủ màng tim là hậu quả của nhiễm trùng máu, thường do tụ cầu hay gặp ở trẻ em.
-
Cần phân biệt với tràn mủ màng tim do biến chứng vỡ áp xe gan trái ( kỹ thuật xử lý khác hẳn nhau).
-
Biểu hiện lâm sàng thường thấy các dấu hiệu ứ trệ tuần hoàn TM ngoại vi và mao mạch phổi hoặc nặng hơn là hội chứng chèn ép tim cấp tính.
-
Chẩn đoán: dấu hiệu suy tim phải, tiếng tim mờ và hội chứng nhiễm trùng. Chiếu X.Q có giá trị hơn chụp với hình ảnh bóng tim to, kém co bóp. Điện tâm đồ cho thấy giảm điện thế và rối loạn giai đoạn khử cực.
-
Siêu âm xác định dịch trong màng tim.
-
Chọc dò màng tim cho biết tính chất của dịch.
-
Viêm mủ màng tim gây hội chứng chèn ép tim cấp tính phải được xử lý cấp cứu.
+ Chọc hút màng tim:
- Đường Dieulafoy: điểm chọc kim ở liên sườn V trái, cách bờ trái xương ức 4-5 cm.
- Đường Marfan: dưới mũi ức 1-2 cm, trên đường trắng giữa.
+ Dẫn lưu màng tim: dẫn lưu màng ngoài tim theo đường Marfan ( đi từ mũi ức lên) hoặc cắt bỏ đầu trong của sụn sườn thứ 5, đẩy màng phổi ra ngoài để vào thẳng màng tim. Có thể chỉ dẫn lưu đơn thuần hoặc phối hợp dẫn lưu tưới rửa để tránh di chứng màng tim.
+ Cắt bỏ màng tim :
Một số trường hợp mủ màng tim lâu ngày, dùng nhiều kháng sinh nên mủ cô đặc và đóng bánh trong màng tim , chọc hút hoặc dẫn lưu không kết quả, nên mổ cắt bỏ màng tim bên trái để tránh di chứng dày dính màng tim.
Gây mê NKQ, mở ngực trái phía trước khoang liên sườn 5, cắt bỏ phần màng tim phía trước thần kinh hoành và phía sau xương ức, dẫn lưu màng tim vào màng phổi bằng một đường rạch màng tim sau thần kinh hoành.
Theo PGS.TS. Đặng Ngọc Hùng